Sáng 19-12 (26-11-Nhâm Dần), tại chùa Vạn Linh (Núi Cấm, An Giang) và chùa Vạn Đức (TP.Thủ Đức) môn đồ pháp quyến đã trang nghiêm tổ chức lễ tưởng niệm lần thứ 69 Hòa thượng Thích Thiện Quang, húy Hồng Xứng, khai sơn tổ đình Vạn Linh viên tịch.
Tại chùa Vạn Đức (TP.Thủ Đức), môn hạ đệ tử thiết lễ tưởng niệm với sự quang lâm chứng minh của Hòa thượng Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch Hội đồng Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự Trung ương; Hòa thượng Thích Thiện Pháp, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự kiêm Trưởng ban Kiểm soát Trung ương; Thượng tọa Thích Phước Nguyên, Phó Tổng Thư ký kiêm Chánh Văn phòng II Trung ương… dâng hương cầu nguyện.
Cũng trong ngày này, tại tổ đình Vạn Linh, chư tôn đức môn phong đã cử hành nghi thức tụng kinh, hữu nhiễu tháp Tổ, cung tiến Giác linh Hòa thượng theo nghi lễ truyền thống thiền môn.
Đối trước Giác linh đài, chư tôn đức đã niêm hương tưởng niệm bày tỏ niềm kính tiếc và tri ân công đức cao dày của cố Hòa thượng đối với môn phong và đạo pháp.
Hòa thượng Thích Thiện Quang, pháp húy Hồng Xứng, thế danh Nguyễn Văn Xứng, sinh năm 1895 tại Mỏ Cày, Bến Tre. Ngài là đệ tử của Tổ Chí Thiền – Như Hiển, tiếp nối dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 40, là bổn sư của Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh (1917-1014), Đệ nhị Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN.
Năm 30 tuổi, ngài tìm về chùa Phi Lai (núi Két) nơi trú xứ của Tổ Chí Thiền – Như Hiển (1861-1933), một bậc chân tu đắc đạo, giới đức tinh nghiêm xin xuất gia, được Tổ thâu nhận làm đệ tử và được ban pháp danh là Thiện Quang, húy Hồng Xứng.
Ngài siêng năng tinh tấn, chuyên tâm học tập kinh luật. Vốn tính tình lặng lẽ thâm trầm, thích ở nơi vắng lặng để dễ bề tu tập, năm 1927, sau mùa An cư, ngài được Tổ cho phép và lên núi Cấm cất am chuyên tu.
Sinh thời, ngài chuyên trì chú Đại bi và niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thuần thục đến độ khi ngủ vẫn niệm.
Hòa thượng có tài trị bệnh, tiếng lành đồn xa, nên nhiều người tìm đến xin điều trị, học thuốc, học đạo. Cảm ân đức của ngài, có người xin công quả, kẻ xin xuất gia ngày càng một đông.
Năm 1941, ngài hưng công xây dựng chánh điện, Tăng phòng, kho bếp… khai mở đạo tràng, tiếp Tăng độ chúng, xiển dương đạo pháp có sức ảnh hưởng rộng lớn tại miền Tây Nam bộ.
Năm 1946, trong tình hình chiến tranh, ngài cùng đồ chúng xuống núi tạm lánh ở nhà Phật tử tại Tri Tôn. Sau đó, theo lời mời của Phật tử, Hòa thượng về chùa Linh Bửu (Bình Thạnh, Sài Gòn) tá túc.
Sáng 26-11, ngài ngồi trên giường cùng đại chúng niệm Phật, sau khi niệm to đứt quảng danh hiệu Nam-mô A Di Đà Phật, ngài từ từ nằm ngay thẳng xuống giường, an nhiên thị tịch vào lúc 8 giờ 15 phút ngày 26-11-Quý Tỵ (31-12-1953), trụ thế 59 tuổi.
Sinh thời, Hòa thượng Thích Trí Tịnh đã tóm cuộc đời của Thầy mình bằng bốn câu thơ chữ Hán, phiên âm như sau:
Thiện Tự nội tàng thời hản ngộ
Quang truyền ngoại hoá thế đa quy
Vạn Linh sơn trụ khai mông muội
Linh Bửu Tây quy hiển thoại tường.
Tạm dịch:
“Thiện ẩn bên trong đời ít biết
Quang độ người ngoài lắm kẻ quy
Vạn Linh ở núi khai mông muội
Linh Bửu về Tây hiển điềm lành”.
Một số hình ảnh ghi nhận được: