“Ta khổ, Ta Bà lắm khổ

Tịnh độ vui, Tịnh độ nhàn vui’’

Nói về đạo, thì không có đạo nào lớn bằng đạo Phật. Nói về lý, thì không lý nào thấm bằng lý Phật. Người thế gian chỉ biết đạo lý của Phật khó hiểu, chứ không biết pháp môn của Phật dạy rất dễ tu. Đức Phật Thích Ca tu nhiều kiếp mới thành, lại cho là khó sánh, mà ít ai dám tu như Phật.

Nhưng phải hiểu rằng pháp Ngài dạy là tùy duyên cho tất cả căn cơ của chúng sanh để thích hợp tu tập. Nguyên Đức Phật Thích Ca trước khi Ngài chưa tu, thì Ngài cũng là một con người như ta vậy. Cũng có nhiều kiếp hưởng phước mà sinh làm trời, làm tiên, làm người, làm A tu la, rồi cũng có nhiều kiếp thọ tội mà đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, trôi lăn biết bao nhiêu kiếp, thay hình đổi dạng không biết là mấy thân, khổ sướng nhục vinh, không phương xiếc kể.

Đến khi Ngài hạ thế làm con vua Tịnh Phạn, Ngài nhận ra sự đời khổ đau không sao tả được, tỉnh cơn mộng mị, biết hồng trần là sự đầy mâu thuẫn giả dối, thân thể này là bất tịnh rất gớm ghê nhơ nhớp, chán mùi danh lợi mà bỏ phú quý vinh hoa để tìm đường tu đạo. Nghe có Thầy thuyết pháp ở xứ nào cũng tìm đến nghe và khi hay tin có Thầy giảng dạy đạo ở nước nào cũng tìm cầu tới học. Đó là tâm tư nguyện vọng của Ngài, nguyện vọng đó không ngưng nghĩ. Do sự tinh tấn tu học mà Ngài đã thành Phật. Phật A Mi Đà vốn là bạn đồng hành cùng Ngài. Khi Ngài chưa thành Phật, thì đức Phật A Mi Đà cũng chưa thành Phật (Vô lượng kiếp về quá khứ trước, có một thuở A Mi Đà và Đức Thích Ca đồng tu một lượt). Lúc bấy giờ, vua Vô Tránh Nhiệm (tiền thân của Đức Phật A Mi Đà) là bạn thân của một vị Đại thần Bảo Hải (tức là tiền thân của Đức Thích Ca). Khi ấy có Phật Bảo Tạng ra đời hóa độ chúng sanh, hai vị cùng đến chỗ của Phật Bảo Tạng phát Bồ đề tâm. Vua Vô Tránh Nhiệm nguyện rằng: “Tôi nguyện tu pháp đại thừa ứng hóa về nước tịnh độ. Tôi nguyện độ chúng sanh tịnh độ của tôi dứt tất cả mọi điều khổ não. Bằng chẳng đặng như vậy, thì tôi thề không thành Phật.” Còn Ngài Bảo Hải thì nguyện ứng hóa về cõi uế độ tức là cõi Ta Bà này để độ chúng sanh hữu tình.

Đức Phật A Mi Đà lập ra cõi Tịnh độ, để độ chúng sanh hữu duyên niệm Phật cầu sanh về Tịnh độ, nếu không thật vậy thì Ngài đâu thành Phật, mà kỳ thực Ngài đã thành Phật được 10 kiếp, điều đó cho ta thấy rằng lời nguyện của Ngài là chân thật, không sai. Đức Phật Thích Ca luôn luôn giới thiệu chúng sanh ở cõi Ta Bà này phải nên phát nguyện cầu sanh Tịnh độ và pháp môn duy nhất là trì danh hiệu Phật A Mi Đà, con đường tu tắt theo bổn nguyện của Đức Phật A Mi Đà là đới nghiệp vãng sanh.

‘‘Niệm Phật một câu phước sanh vô lượng

Lạy Phật một lạy diệt tội hằng sa’’

Tại sao niệm Phật mà được phước như vậy?

Một là do nương theo đại nguyện của Đức Phật A Mi Đà.

Hai là do tất cả các vị Phật đã tu vô lượng kiếp tất cả các pháp thiện, vì hành tất cả các pháp thiện để lợi ích cho tất cả chúng sanh, Ngài hy sinh tất cả từ vật chất cho đến cả thân mạng cũng không ngoài mong muốn đem đến sự an lạc và hạnh phúc cho tất cả chúng sanh. Do đó mà Ngài mới được thành Phật. Cho nên chúng ta niệm Phật là niệm tổng công đức lành của Phật mà cũng là nguyện tu các công đức lành ấy. Do đó cũng được vô lượng công đức.

Kết quả đúng không sai, bởi đó là nguyên tắc. Tịnh độ được xây dựng trên nền tảng tịnh giới, có giữ giới thanh tịnh là có Tịnh độ. Chúng ta tu các thiện pháp, các thiện pháp chính là giới. Mười phương chư Phật cũng như thế không ngoài Tịnh giới.

Người tu tịnh độ cần có đầy đủ ba yếu tố như Sư ông Vạn Đức đã dạy: tín, nguyện, hạnh, nếu đầy đủ ba yếu tố trên thì chắc chắn sanh cực lạc.

‘‘Giới, định, tuệ thoát Ta Bà
Tín, nguyện, hạnh sanh Cực Lạc’’

Mùa an cư năm nay được các chư Tôn đức Hòa thượng đến chùa giảng dạy rút ra được kinh nghiệm cũng như bấy lâu nay Sư ông dạy cũng như thế, làm tăng thêm lòng tin của hành giả, không còn nghi ngờ gì nữa. Tịnh độ được chính Đức Phật Bổn Sư dạy qua các bộ kinh chính đó là: kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng, kinh A Mi Đà và các chư Tổ đã truyền thừa xiển dương. Cuối cũng chỉ rốt tha thiết phát nguyện xưng niệm hồng danh Nam mô A Mi Đà Phật

Đức Phật A Mi Đà

Là vô thượng y vương

Nếu bỏ đây không cầu

Ấy là kẻ cuồng si !

Một câu hồng danh Phật

Là thuốc diệu Mi Đà.

Nếu bỏ đây không uống.

Thật lầm to lắm mà! (Sưu tầm)

 

THÍCH HOẰNG VĂN