Tổ Thiện Quang – Hồng Xứng (1895 – 1953), khai sơn tổ đình Vạn Linh

  • Thân thế

Hòa thượng Thích Thiện Quang, pháp húy Hồng Xứng, là đệ tử của Tổ Chí Thiền – Như Hiển (1861-1933), tiếp nối dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 40. Ngài là bổn sư của Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh (1917-1014), Đệ nhị Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN.

Hòa thượng thế danh Nguyễn Văn Xứng, sinh năm 1895 tại Vồng Keo, nay là ấp Tân Thuận, xã Tân Bình, huyện Mõ Cày, tỉnh Bến Tre.

Thân sinh là cụ ông Nguyễn Văn Chiếu, thân mẫu là cụ bà Võ Thị Sáng. Ngài sinh ra trong một gia đình phú nông nhiều đời tích đức, là con thứ 5 trong gia đình có 7 anh chị em và là con trai duy nhất trong nhà

Lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị người Pháp đô hộ, thấm thía nỗi thống khổ của người dân nô lệ, ngài đã âm thầm cùng bạn bè luyện tập võ nghệ, sau gia nhập tổ chức Thiên Địa hội, tiền thân là tổ chức phản Thanh phục Minh của Trung Hoa – vì bị đàn áp xua đuổi nên đã tị nạn sang Việt Nam và lâu ngày Việt hóa thành tổ chức chống Pháp.

Bấy giờ, những gia đình khá giả thường bị người Pháp buộc phải tham gia làm việc trong Ban Hương chức Hội tề, gia đình ngài cũng không ngoại lệ.

Cha ngài làm Hương cả, tục gọi là Cả Chiếu. Bản thân ngài làm Phó Hương quản, vì vậy mãi đến năm 24 tuổi sau khi gia đình thúc ép nhiều lần, ngài mới lập gia đình, có được hai người con (một trai, một gái).

Lập gia đình chưa được bao lâu, ngài sanh bịnh, thuốc men khắp nơi không hết. Một hôm có vị sư cùng quê tu trên núi Két (Thất Sơn) về thăm, khi gặp ngài vị sư bảo: “Muốn hết bệnh, lên núi sư giúp.”

Năm 1918, tổ chức Thiên Địa hội bị lộ nên thành viên bị bắt rất nhiều, tuy nhiên mật thám chưa lần được ra ngài.

Một hôm trong làng có việc, Hương quản đánh mỏ triệu tập dân chúng, ngài đang ăn cơm nên ra trễ, ông Hương quản bắt lỗi và sẵn cầm dùi nên đánh luôn ngài. Ngài giật dùi đánh lại xong bỏ về. Sự việc xảy ra như giọt nước cuối cùng làm tràn ly, ngay hôm đó ngài vội thu xếp gia đình, khăn gói lên đường hướng về Thất Sơn, Châu Đốc lánh thân.

  • Xuất gia tu đạo

Tìm đến núi Két, gặp được vị sư khi trước kể rõ sự tình, được sư cho ở lại trị bệnh, sau đó học nghề thuốc, bệnh duyên lần lần thuyên giảm.

Duyên lành gần gũi chư Tăng, tìm hiểu Phật pháp, vốn sẵn căn lành, ngài nhận ra cảnh đời vô thường nên trong tâm nhen nhóm chí xuất trần. Thời gian sau, thấy yên ổn nên ngài về thăm nhà rồi lại lên núi trong suốt nhiều năm.

Lần hồi, đạo tâm ngày càng kiên cố, lại được vị sư khuyến khích, nhưng vì núi Két gần chợ, Phật tử thăm viếng thường xuyên nên ngài có ý tìm nơi khác.

Sau khi nghe núi Kỳ Hương có chùa Phi Lai nơi trú xứ của Tổ Chí Thiền – Như Hiển, một bậc chân tu đắc đạo, giới đức tinh nghiêm đang giáo hóa đồ chúng rất đông, ngài đã tìm đến bày tỏ nguyện vọng và được Tổ cho quy y ở lại công quả tập sự.

Năm 1925, ngài được Tổ thế phát xuất gia và ban cho pháp danh là Thiện Quang, húy Hồng Xứng. Từ đó, siêng năng tinh tấn, chuyên tâm học tập kinh luật.

  • Hành đạo

Vốn tính tình lặng lẽ thâm trầm, thích ở nơi vắng lặng để dễ bề tu tập. Năm 1927, sau mùa An cư, ngài trình bày nguyện vọng tìm một nơi vắng vẻ tu tập và được Tổ cho phép.

Ngài lên núi Cấm, dưới chân vồ Bồ Hong cất am chuyên tu. Ngài chuyên trì chú Đại bi và niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, thuần thục đến độ khi ngủ vẫn niệm.

Sinh thời, ngài có những hành tung kỳ bí, người thường khó biết. Những việc lớn nhỏ trong chùa ngài thường huyền ký cho biết trước, như việc huyền ký về cuộc đời Hòa thượng Thích Trí Tịnh (Hòa thượng Vạn Đức) được người đời sau nghiệm lại rất đúng.

Ngài có tài trị bệnh, nhất là bệnh tà. Nhiều người chữa chạy khắp nơi không hết, nhưng tìm đến ngài chữa trị rất đơn giản bằng thuốc núi… vậy mà hết bệnh.

Tiếng lành đồn xa, nhiều người tìm đến xin trị bệnh, học thuốc, học đạo. Cảm ân đức của ngài, có người xin công quả, người xin xuất gia.

Lúc bấy giờ, am tranh nhỏ hẹp, với sự phát tâm ủng hộ của tín chủ khắp nơi, ngài hưng công xây dựng chánh điện, Tăng phòng, kho bếp…

Năm 1941, ngôi chùa được hoàn nguyện xây dựng với quy mô bề thế nhất núi lúc bấy giờ. Ngài khai mở đạo tràng, tiếp Tăng độ chúng, xiển dương đạo pháp có sức ảnh hưởng rộng lớn.

Năm 1945, cuộc kháng chiến chống pháp của toàn dân bùng nổ, núi Cấm là nơi hiểm địa nên những người yêu nước thường chọn làm căn cứ tổ chức chống Pháp.

Năm 1946, chính quyền Pháp biết được nên ra lệnh đuổi tất cả người dân xuống núi không kể là Tăng hay tục. Vì lẽ ấy, ngài cùng đồ chúng xuống núi lánh tạm ở nhà Phật tử tại Tri Tôn.

Đầu năm 1947, chiến trận ngày càng tăng, không hy vọng gì được trở về núi, Hòa thượng về chùa Linh Bửu ở Cầu Bông, Bình Thạnh, Sài Gòn theo lời mời của một số Phật tử. Về đây, ở trên một căn gác nhỏ, ngài luôn tinh tấn chuyên tâm tu tập không lúc nào ngừng ngớt.

  • Viên tịch

Ngày 20-11-Quý Tỵ (1953) sau khi đi dự lễ thượng lương cho bổn đạo về, ngài không chịu ăn, chỉ uống nước. Thị giả dâng cơm ngài nói: “Ăn cũng vậy, không ăn cũng vậy. Ăn chi, để cho nó sạch.

Đến ngày 23-11, đồ chúng lo sợ, mời thầy thuốc đến xem bệnh, bốc thuốc. Thị giả dâng thuốc, ngài cũng không uống và nói: “Uống cũng vậy, không uống cũng vậy, uống chi?”

Ngày 24-11, bảo với đại chúng: “Mấy đứa bây chuẩn bị, sáng mốt đưa tao về. Đồ chúng tưởng ngài muốn về núi nên thưa: “Lúc này trên núi còn lộn xộn lắm chưa về được., ngài nói: “Thôi, mấy đứa bây có giỏi niệm Phật đua với tao.

Từ đó, ngài chuyên niệm Phật cùng đại chúng. Đến sáng ngày 26-11, ngài ngồi trên giường cùng đại chúng niệm Phật; sau khi niệm to đứt quảng câu hồng danh Nam-mô A Di Đà Phật” rồi từ từ nằm ngay thẳng xuống giường, an nhiên thị tịch vào lúc 8 giờ 15 phút ngày 26-11-Quý Tỵ (31-12-1953), trụ thế 59 tuổi.

Vì phải chờ môn đồ pháp quyến và thân nhân đông đủ, đến 15 giờ ngày 27-11, mới cử hành lễ nhập kim quan. Dù trải qua hơn 24 tiếng nhưng nhục thân Hòa thượng vẫn mềm mại. Sau đó, nhục thân của ngài được an táng tại khu đất sau chùa Vạn Đức, Thủ Đức.

Đến năm 1985, Hòa thượng Thích Thiện Thành, trụ trì tổ đình Vạn Linh đời thứ 2, tổ chức thỉnh nhục thân ngài về núi nhưng sự việc không thành nên đưa về Sài Gòn hỏa táng, tro cốt được thờ ở tháp Phổ Đồng tại chùa Huệ Nghiêm, Bình Chánh.

Năm 1995, Hòa thượng Vạn Đức chỉ đạo khởi công trùng kiến tổ đình Vạn Linh. Chánh điện sau khi được xây dựng cở bản hoàn chỉnh, tháp Tổ được tiến hành sau đó.

Ngày 24-11-Mậu Dần (1998), Hoà thượng Vạn Đức tổ chức thỉnh Phật lên núi phụng thờ tại chánh điện mới, đồng thời thỉnh linh cốt Hoà thượng nhập bảo tháp. Sau đúng 45 năm, tâm nguyện đã được viên thành; sự nghiệp của Hòa thượng đã được hàng môn hạ tiếp nối, lưu truyền mối đạo từ đời này sang đời khác qua bao thế hệ cho đến ngày nay.

Hòa thượng Vạn Đức đã tóm cuộc đời của ngài bằng bốn câu thơ:

Thiện Tự nội tàng thời hản ngộ

Quang truyền ngoại hoá thế đa quy

Vạn Linh sơn trụ khai mông muội

Linh Bửu Tây quy hiển thoại  tường

Tạm dịch

Thiện ẩn bên trong đời ít biết

Quang độ người ngoài lắm kẻ quy

Vạn Linh ở núi khai mông muội

Linh Bửu về Tây hiển điềm lành.

Nam-mô Vạn Linh đường thượng, tự Lâm Tế Gia Phổ, Tứ Thập thế, thượng Thiện hạ Quang, húy Hồng Xứng, Nguyễn Công Hòa thượng Giác linh thùy từ chứng giám.